Ba năm sầu muộn, chịu đựng gian khổ, nhẫn nhục, tự nghiêm khắc với chính mình, rộng lượng với kẻ dưới, cung kính với khách bạn, để tỏ lòng thành kính với Cha Mẹ.
Thời xưa, dẫu làm quan đến chức gì, theo phép nước, hễ cha mẹ mất đều phải về cư tang 3 năm trừ trường hợp đang bận việc quân nơi biên ải hay đi sứ nước ngoài (lệ này không quy định đối với binh lính và nha lại).
Nếu ai vì tham quyền cố vị, giấu diếm không tâu báo để về cư tang, bị đàn hặc (tố giác – Vietgle) vì tội bất hiếu, sẽ bị triều đình sử phạt. Trong thời gian cư tang, lệnh vua không đến cửa.
Ba năm cư tang là ba năm chịu đựng gian khổ, nhẫn nhục, không dự mọi cuộc vui, không dự lễ cưới, lễ mừng, không uống rượu (ngoài chén rượu cúng cha mẹ), không nghe nhạc vui, không ngủ với vợ hoặc nàng hầu, trừ trường hợp chưa có con trai để nối dõi tông đường, ngoài ra ai sinh con trong thời kỳ này cũng bị coi là bất hiếu.
Không được mặc gấm vóc, nhung lụa, không đội mũ đi hia, thường đi chân không, cùng lắm chỉ đi guốc mộc hoặc giày cỏ. Dù làm đến Tể tướng trong triều, khi khách đến viếng Cha Mẹ mình, bất kể sang hay hèn cũng phải cung kính chào mời và lạy tạ (hai lạy hay ba vái dài).
Khi ra đường, không sinh sự với bắt cứ người nào. Ở trong nhà, đối với kể ăn người ở cũng không được to tiếng. Ba năm sầu muộn, tự nghiêm khắc với chính mình, rộng lượng với kẻ dưới, cung kính với khách bạn, để tỏ lòng thành kính với Cha Mẹ.
Thời nay không còn lệ cư tang, nhất là các con cháu không có điều kiện nghỉ việc thời gian dài, nhưng biết qua lệ cư tang của Ông cha ta ngày xưa, hậu sinh có thể học được nhiều điều trong thái độ ứng xử.
(Nguồn: phongtuc.vn)