Cúng giao thừa là một nghi thức phổ biến, nguồn gốc sâu xa của nghi lễ này để đón thần Hành binh – Hành khiển của năm, hoặc gắn với việc cầu mong thần Thái Tuế bảo hộ cá nhân.
Việc tiễn Táo, tiễn thần, Phật diễn ra vào những ngày cuối năm, đến giao thừa là thời khắc đón về. Đón ông Táo bằng việc gầy lửa mới, đón thần, Phật gắn với việc đón thần Hành binh – Hành khiển của năm mới.
Cúng các vị thần thay mặt Ngọc Hoàng trông coi thế gian
Nguồn gốc cúng giao thừa được nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Trảng viết rõ trong cuốn Khảo luận về Tết. Theo Huỳnh Ngọc Trảng, nội dung các bài văn khấn trong lễ cúng giao thừa cho thấy đối tượng cung thỉnh rất đông đảo, bao quát “chín phương trời, mười phương chư Phật”. Trong đó đối tượng chính của lễ là Thái Tuế tôn thần, ngoài ra là thần bản cảnh thành hoàng, thổ địa, thần ngũ phương ngũ thổ, long mạch thần tài, bản gia Táo quân, chư vị thần bản xứ…
Thái Tuế là tên gọi của thần cai trị mỗi năm của Đạo giáo. Tín ngưỡng này gốc từ việc sùng bái các vì sao thời cổ của người Trung Quốc. Trong khoa thiên văn, sao Thái Tuế là sao Mộc trên bầu trời. Chu kỳ của sao Mộc quay quanh mặt trời là 12 năm nên sao Mộc còn được gọi là Tuế tinh, sau phát triển thành Thái Tuế tinh quân, hay Tuế quân, Thái Tuế tôn thần.
Mỗi năm đều có một vị thần Hành binh, Hành khiển và Phán quan khác nhau. Ví dụ, năm Hợi có Lưu Vương hành khiển, Ngũ Ôn hành binh chi thần, Nguyễn Tào phán quan; năm Tí có Chu Vương hành khiển, Thiên Ôn hành binh chi thần, Lý Tào phán quan; năm Sửu có Triệu Vương hành khiển, Tâm Thập lục thương hành binh chi thần, Khúc Tào phán quan…
Mọi người cho rằng, các vị Hành binh, Hành khiển có vị nhân từ, có vị hung dữ. Năm nào gặp vị thần nhân từ thì mưa thuận gió hòa, cuộc sống khang thái; ngược lại năm nào đói kém mất mùa, dịch bệnh, tai ách loạn lạc triền miên thì người ta cho rằng các tai họa ấy do vị thần Hành khiển – Hành binh năm đó giận dữ gây nên.
Tập hợp 12 vị thần Hành binh – Hành khiển là thần Thái Tuế, gốc từ tín ngưỡng sùng bái tinh tú, cụ thể là Mộc tinh. Nói cách khác, Thái Tuế là dụng ngữ lịch pháp và thuật số cổ đại, đây là tên gọi khác của can chi trực tuế mà lịch pháp cũ dùng để ghi năm. Nếu là năm Giáp Tuất thì Giáp Tuất sẽ là Thái Tuế, năm Ất Sửu thì Ất Sửa là Thái Tuế. Theo đó, từ năm Giáp Tí đến năm Quý Hợi là hết một vòng tổng cộng 60 Thái Tuế.
Đạo Giáo coi đây là 60 vị thần, gọi là 60 thần Giáp Tí (phối hợp 10 thiên can với 12 địa chi, khởi đi từ Giáp Tí đến Quý Hợi, hết một chu kỳ là 60 năm), và cũng coi đây là Lục Thập Nguyên thần (60 vị nguyên thần). Đạo Giáo cho rằng đây là 60 thần bản mệnh. Mỗi người sinh ra vào một năm, tùy vào năm sinh đó mà họ thuộc vào một trong 60 Nguyên thần, đó chính là thần bản mệnh.
Chính vì vậy, việc cầu cúng thần bản mệnh, gọi là “cầu thuận tinh” hay “cầu thần bảo hộ” để cầu thần bảo vệ cho bản thân mình một năm được những điều tốt lành, an khang, hanh thông.
Theo tập quán phổ biến, việc cúng Hành khiển – Hành binh vào giao thừa phổ biến thay cho việc cúng sao Thái Tuế hàng năm của từng cá nhân.
Tuy vậy, từ tín niệm và tín ngưỡng thờ cúng Thái Tuế để cầu sự bảo hộ, hóa giải vận hạn cá nhân, hay cúng thần Hành khiển – Hành binh vào đêm giao thừa dịp Tết là một biến thể riêng, tùy tập tục tế tự đầu năm của mỗi địa phương, gia đình.
Ý nghĩa cúng giao thừa – Lễ trừ tịch?
Trừ tịch là giờ phút cuối cùng của năm cũ sắp bắt đầu qua năm mới. Vào lúc này, dân chúng Việt Nam theo cổ lệ có làm lễ trừ tịch. Ý nghĩa của lễ này là đem bỏ hết đi những điều xấu của năm cũ sắp qua để đón những điều tốt đẹp của năm mới sắp đến. Lễ trừ tịch còn là lễ để “khu trừ ma quỷ”, do đó có từ “trừ tịch”. Lễ trừ tịch cử hành vào lúc giao thừa nên còn mang tên là lễ giao thừa.
Tại sao phải cúng ngoài trời?
Các cụ hình dung phút ấy ngang trời quân đi, quân về đầy không trung tấp nập, vội vã (nhưng mắt trần ta không nhìn thấy được) thậm chí có quan quân còn chưa kịp ăn uống gì. Những phút ấy, các gia đình đưa xôi gà, bánh trái, hoa quả, toàn đồ ăn nguội ra ngoài trời cúng, với lòng thành tiễn đưa người nhà Trời đã cai quản mình năm cũ và đón người nhà trời mới xuống làm nhiệm vụ cai quản hạ giới năm tới.
Vì việc bàn giao, tiếp quản công việc hết sức khẩn trương nên các vị không thể vào trong nhà khề khà mâm bát mà chỉ có thể dừng vài giây ăn vội vàng hoặc mang theo, thậm chí chỉ chứng kiến lòng thành của chủ nhà.
Nghi thức cúng giao thừa?
Ở nhiều nhà, người ta bày lên bàn thờ một con gà trống mà chân gà sẽ nói cho chủ nhân biết, nhờ sự giải thích của các thầy cúng và thầy bói, điều ông ta phải chờ đợi trong năm.
Chủ nhà quỳ lạy trước bàn thờ, và cũng lạy cả bốn phương trời, để cầu xin ân huệ của tất cả các thần trên thế gian. Bàn thờ tổ tiên cũng được thắp đèn sáng, và kẹo bánh được dâng cúng giữa khói hương dày đặc.
Lễ cúng giao thừa là một trong những lễ quan trọng nhất trong năm. Lễ cúng giao thừa gồm có 2 lễ đó là lễ cúng ngoài trời và lễ cúng trong nhà. Mỗi lễ cúng sẽ có mâm cỗ cúng giao thừa riêng.
Mâm cúng giao thừa ngoài trời: Lễ cúng giao thừa ngoài trời được gọi là lễ cúng tiễn vi thần cựu vương hành khiển (vị thần chịu trách nhiệm coi sóc dân và cai quản hạ giới) của năm cũ đi và đón ông mới về. Mâm cỗ cúng giao thừa ngoài trời gồm:
– Mâm cúng món mặn: Đặc biệt không thể thiếu gà luộc (có những nơi dùng thủ lợn), bánh chưng, đèn hoặc nến, vàng mã, hoa tươi, rượu, trà … và một chiếc mũ chuồn hàng mã (tùy vùng miền sẽ không có món này). Lưu ý là tất cả các đồ cúng trong mâm cúng giao thừa cần phải được chuẩn bị đầy đủ và bê ra trước giờ giao thừa.
Tục lệ trong đêm trừ tịch?
Sau khi làm lễ giao thừa, các cụ ta có những tục lệ riêng mà cho đến nay, từ thôn quê đến thành thị, vẫn còn nhiều người tôn trọng thực hiện.
– Lễ chùa, đình, đền: Lễ giao thừa ở nhà xong, người ta kéo nhau đi lễ các đình, chùa, miếu, điện để cầu phúc, cầu may, để xin Phật, Thần phù hộ độ trì cho bản thân và gia đình và nhân dịp này người ta thường xin quẻ thẻ đầu năm.
– Kén hướng xuất hành: Khi đi lễ, người ta kén giờ và hướng xuất hành, đi đúng hướng đúng giờ để gặp may mắn quanh năm.
– Hái lộc: Ði lễ đình, chùa, miếu, điện xong người ta có tục hái trước cửa đình, cửa đền một cành cây gọi là cành lộc mang về ngụ ý là “lấy lộc” của Trời đất Thần Phật ban cho. Cành lộc này được mang về cắm trước bàn thờ cho đến khi tàn khô.
– Hương lộc: Có nhiều người thay vì hái cành lộc lại xin lộc tại các đình, đền, chùa, miếu bằng cách đốt một nắm hương, đứng khấn vái trước bàn thờ, rồi mang hương đó về cắm và bình hương bàn thờ nhà mình. Ngọn lửa tượng trưng cho sự phát đạt được lấy từ nơi thờ tự về tức là xin Phật, Thánh phù hộ cho được phát đạt quanh năm.
– Xông nhà: Thường người ta kén một người “dễ vía” trong gia đình ra đi từ trước giờ trừ tịch, rồi sau lễ trừ tịch thì xin hương lộc hoặc hái cành lộc ở đình chùa mang về. Lúc trở về đã sang năm mới và người này sẽ tự “xông nhà” cho gia đình mình, mang sự tốt đẹp quanh năm về cho gia đình. Nếu không có người nhà dễ vía người ta phải nhờ người khác tốt vía để sớm ngày mồng một đến xông nhà trước khi có khách tới chúc Tết, để người này đem lại sự may mắn dễ dãi.