Tết Thanh Minh tuy không phải là cái Tết lớn, nhưng lại gắn liền với đạo đức, với bổn phận con người Việt Nam – bổn phận của con cháu tưởng nhớ công lao của tổ phụ, của những người đi trước. Đây chính là ngày giỗ tổ chung để mọi người có dịp báo hiếu, trả nghĩa, gọi là đền đáp phần nào ơn sinh thành tạo dựng của Tổ tiên.
Tết Thanh Minh là gì?
Tết Thanh Minh (tục tảo mộ) là một trong những ngày lễ cổ truyền của người Việt, với đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, từ xa xưa, tết Thanh Minh đã trở thành ngày gắn liền với đạo đức, thể hiện đạo hiếu của con cháu với ông bà tổ tiên.
Tết Thanh Minh không có ngày cố định. Thời gian bắt đầu từ ngày 4 hoặc 5 của tháng 4 (sau khi kết thúc tiết xuân phân). Kết thúc vào khoảng ngày 20 hoặc 21 tháng 4 theo dương lịch.
Năm 2023 Tết Thanh Minh rơi vào thứ ba ngày mùng 5/4/2023 dương lịch, nhằm ngày 15/2 (nhuần) ngày Quý Tỵ, tháng Ất Mão, năm Quý Mão.
Nguồn gốc Tết Thanh Minh
Tết Thanh Minh có nguồn gốc từ Trung Hoa, qua quá trình tiếp biến và giao lưu văn hóa du nhập sang Việt Nam. Chuyện kể rằng, đời Xuân Thu, vua Tấn Văn Công, nước Tấn, gặp loạn phải bỏ nước lưu vong, nay trú nước Tề, mai trú nước Sở. Bấy giờ có một hiền sĩ tên là Giới Tử Thôi theo vua giúp đỡ mưu kế. Một hôm, trên đường lánh nạn, lương thực cạn, Giới Tử Thôi phải lén cắt một miếng thịt đùi mình nấu lên dâng vua. Vua ăn xong hỏi ra mới biết, đem lòng cảm kích vô cùng. Giới Tử Thôi theo phò Tấn Văn Công trong mười chín năm trời, cùng nhau trải nếm bao nhiêu gian truân nguy hiểm.
Về sau, Tấn Văn Công giành lại được ngôi báu trở về làm vua nước Tấn, phong thưởng rất hậu cho những người có công, nhưng lại quên mất công lao của Giới Tử Thôi. Giới Tử Thôi cũng không oán giận gì, nghĩ mình làm được việc gì, cũng là cái nghĩa vụ của mình, chứ không có công lao gì đáng nói. Vì vậy, ông về nhà đưa mẹ vào núi Điền Sơn ở ẩn. Tấn Văn Công về sau nhớ ra, cho người đi tìm. Giới Tử Thôi không chịu rời Điền Sơn ra lĩnh thưởng, Tấn Văn Công hạ lệnh đốt rừng, ý muốn thúc ép Giới Tử Thôi phải ra, nhưng ông nhất định không chịu tuân mệnh, rốt cục cả hai mẹ con ông đều chết cháy.
Vua thương xót, lập miếu thờ và hạ lệnh trong dân gian phải kiêng đốt lửa ba ngày, chỉ ăn đồ ăn nguội đã nấu sẵn để tưởng niệm (khoảng từ mồng 3/3 đến mồng 5/3 âm lịch hàng năm). Từ đó ngày mùng 3/3 âm lịch hằng năm được coi là ngày Tết Hàn thực, nhằm tưởng nhớ đến công ơn dưỡng dục của những người đã khuất.
Ý nghĩa Tết Thanh Minh
Tết Thanh Minh là ngày có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với đời sống văn hóa của người dân Việt Nam. Trong ngày này, người dân ở khắp nơi trong cả nước đều hướng về cội nguồn, dòng họ. Giữa cuộc sống bận rộn, những người con dành thời gian để vệ sinh, dọn dẹp phần mộ của ông bà tổ tiên trở nên khang trang, sạch đẹp hơn.
Bên cạnh đó, ngày Thanh Minh cũng là ngày nhắc nhở con người ta về nguồn gốc của mình, biết uống nước nhớ nguồn, biết ơn công lao của người đã khuất. Tết chính là dịp để bạn thể hiện tình cảm, lòng biết ơn với những người đi trước. Vào dịp này, người người đi làm ăn xa trở về quê cha đất tổ khá nhiều.
Tết Thanh Minh trong văn hoá Việt
“Thanh Minh trong tiết tháng Ba / Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh”, hai câu thơ Kiều của đại thi hào Nguyễn Du luôn nhắc nhớ đến những lễ tục song hành. Các tỉnh Bắc bộ Việt Nam và cộng đồng Hoa kiều thường ăn Tết này theo tiết khí Thanh Minh như Trung Quốc. Các tỉnh từ Thanh Hóa trở vào Trung bộ ăn tết Thanh Minh vào ngày 3.3 âm lịch. Ở Nam bộ, địa bàn có đông người Hoa sinh sống thường sẽ lấy ngày 4.4 âm lịch làm ngày chính để cúng Thanh Minh.
Sách Gia Định thành thông chí, tập Hạ, mục Phong tục chí của Trịnh Hoài Đức chép rằng: “Ở Gia Định tháng cuối năm thường lo tỉnh tảo bồi đắp phần mộ tổ tiên, việc ấy là vâng theo quốc điển, bởi vì gần tiết Nguyên đán, nhà của mọi người còn ưng chỉnh sức cho đàng hoàng, huống chi lễ con cháu thờ người chết cũng như thờ người sống, đâu có lẽ ngồi coi cây cỏ rậm rợp, mả mồ khuyết lở mà không đắp sửa giẫy dọn. Tuy đời xưa không có lễ tế mộ, nhưng lễ là do nghĩa đặt ra, xem ở Trung Hoa có lễ Thanh Minh tế tảo, thì nước ta làm lễ tảo mộ trong tháng chạp cũng rất phải nghĩa”.
Nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Trảng, trong công trình Khảo luận về Tết cho là bởi quá trình chung sống cùng với cộng đồng người Hoa ở Nam bộ, nên dần dần người Việt miền Nam tiếp thu lễ tiết Thanh Minh của người Hoa.
Lễ tiết Thanh Minh dưới triều Nguyễn
Xây dựng quốc gia thống nhất vào đầu thế kỷ XIX, vua Gia Long đã lựa chọn mẫu hình Khổng Nho để xây dựng vương triều quân chủ theo kiểu phong kiến tập quyền. Dưới triều Nguyễn, nhiều điển tích Nho giáo Trung Hoa được chọn lựa sử dụng và hệ thống các lễ tiết cũng được lựa chọn tiếp thu. Tết Thanh Minh dưới triều Nguyễn được xem là dịp để các vị vua tưởng nhớ đến công đức của tổ tiên, nhiều nghi lễ quan trọng được đích thân vua, hoàng tử, hoặc phân phó cho các quan lại trong triều thực hiện.
Sách Đại Nam thực lục, bộ chính sử triều Nguyễn chéo rằng năm Quý Hợi (Gia Long năm thứ 2 – 1803), định lễ tế xuân thu ở miếu cũ tại Gia Định. Vua dụ cho lưu trấn thần rằng: “Thấp đừng vin cao, hèn đừng thờ quý, đó là lễ vậy. Nay Thái Miếu ở Kinh đã làm xong, việc thờ cũng đã có chỗ. Còn miếu cũ ở Gia Định thì những ngày tết Nguyên Đán, Thanh Minh, Đoan Dương thì sắm lễ dâng cúng, các tiết khác thì thôi, không nên bày ra phiền”. Tháng 3, năm 1803 vào dịp tết Thanh Minh, vua Gia Long đích thân đến Thái Miếu làm lễ.
Đến đời vua Minh Mạng, nhà vua cũng cho định lệ tiết Thanh Minh và sai Bộ Lễ bàn về lễ yết lăng “Đinh Hợi, năm Minh Mạng thứ 8 – 1827, ngày Ất dậu, tiết Thanh Minh. Vua rước Hoàng thái hậu đi yết lăng Thiên Thọ. Sai Đô thống chế Phan Văn Thuý hộ giữ Kinh thành. Lúc lễ xong, vua đi xem khắp hoa cỏ cây cối chỗ cấm địa, thấy xanh tốt thì vui lắm, sắc cho bộ Lễ làm cỗ thiếu lao tế thần núi. Các quan giữ lăng đều thưởng 1 thứ kỷ lục. Lính hai vệ Hộ lăng cùng đội Thuận cần đều thưởng lương 1 tháng”.
Châu bản triều Nguyễn cho biết, tiết Thanh minh năm Minh Mệnh thứ 21, trời lạnh, mưa gió, do bị cảm nên nhà vua chọn người lễ thay. Đợi khi trời tạnh ráo, vua sẽ đến lễ tôn lăng của liệt thánh để tỏ lòng hiếu kính (Trung tâm Lưu trữ quốc gia I)
Ngoài việc tổ chức tổ chức cúng tế các tôn lăng, các tiên đế, tiên hậu ở tại Kinh đô, triều đình nhà Nguyễn cũng rất chú trọng tới lăng mộ các của các tiên hậu ở các địa phương. “Quý Tỵ, năm Minh Mạng thứ 14 (1833), vua đã sai thự Thống chế Thần sách Hữu dinh là Tôn Thất Bằng đi Quảng Nam, thự Vệ úy vệ Loan giá là Tôn Thất Tường đi Thanh Hoa. Đến ngày tết Thanh Minh, Bằng đến 2 lăng Vĩnh Diễn (lăng vợ chúa Nguyễn Phước Tần [Hiếu văn] ở xã Chiêm Sơn, huyện Duy Xuyên, Quảng Nam) và Vĩnh Diên (lăng vợ chúa Nguyễn Phước Chu [Hiếu chiêu]), cùng địa điểm trên, Tường đến 2 lăng Trường Nguyên và Vĩnh Nguyên, khâm mạng làm lễ”.
Sang đời vua Thiệu Trị, nhà vua còn đặt ra lễ “rải đất” trong dịp tiết Thanh Minh. Nhâm Dần, Thiệu Trị năm thứ 2 – 1842, gặp tiết Thanh Minh, sai Lưu Kinh hoàng tử Hồng Bảo đến Hiếu lăng, hoàng tử thứ ba Hồng Phó đến lăng Hiếu Đông, các hoàng thân chia nhau đến các tôn lăng để hành lễ. Vua dụ rằng: “Lễ rải đất ở Hiếu lăng, từ ta đặt ra trước, nhưng nhân có việc bang giao, phải ở lâu ngày tại ngoài này, đương lúc cuối xuân nhiều sương, sắp đến tiết Thanh Minh chưa thể về thân yết lăng mộ, trong lòng tưởng mộ, thương nhớ khôn ngăn! Các người nên kính cẩn thay ta, cần làm cho hợp ý nghĩa ngày lễ. Ta chỉ chắp tay trông lên không, ngậm thương, cúi lạy, hoạ may nhờ đức Hoàng khảo linh thiêng tại trên trời thương xét tới tấm lòng đau xót của ta, kẻ tiểu tử này”. Lại sai Lưu Kinh đại thần Tôn Thất Bạch, hộ ấn Trương Quốc Dụng cùng theo Hồng Bảo, giúp việc bưng sọt làm lễ rải đất (lên mộ); Tuần hộ Hồ Văn Lưu theo Hồng Phó, giúp làm việc lễ nghi; lưu Kinh đại thần Tạ Quang Cự và Hà Duy Phiên thân tay kiểm kỹ các thứ chè, quả phẩm vật kính cẩn dâng tiến; các hoàng tử, hoàng thân tại Kinh mà tuổi đã trưởng thành, trừ ra phải chia phái đi việc khác, còn đến hôm lễ đều phải tới lạy cho hợp với lễ nghi.
Đến đời vua Tự Đức, nhà vua tiếp tục duy trì lễ rải đất được đặt ra dưới thời vua Thiệu Trị. Sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ chép vào năm Tự Đức thứ 2 (1849), nhà vua theo nghị chuẩn: “Hàng năm đến tiết Thanh Minh, nhà vua kính đến lăng Xương lăng làm lễ đắp đất”. Lại theo nghị chuẩn cho: “Hằng năm đến tiết Thanh Minh ở điện Biểu đức, nhà vua thân đến thăm yết; 2 lễ ngày sinh nhật, ngày kỵ, mỗi lễ chọn phái 1 hoàng thân công khâm mạng làm lễ, còn các tiết lễ cả năm đều do chức quan Tôn thất coi giữ làm lễ”…
Chính bởi quan niệm tết Thanh Minh là ngày lễ quan trọng để nhớ ơn tổ tiên nên các vị vua triều Nguyễn rất nghiêm cẩn trong công việc chuẩn bị tế lễ. Trong đời sống người dân vùng Huế và khu vực, tiết Thanh Minh trở thành một ngày tết để sum vầy, để con cháu thể hiện sự hiếu kính với tổ tiên, ông bà và người đã khuất.
Cách đây 87 năm, vào ngày 20.4.1935, dưới thời vua Bảo Đại, Tân Văn tuần báo số 36 in một tin vắn của Cung – Giũ – Nguyên về Lễ Thanh Minh, một ghi chép khá hiếm hoi vào thời điểm này, khi Chính phủ bảo hộ theo ý của Nam triều cho nghỉ lễ Thanh Minh. Cung – Giũ – Nguyên đánh giá rằng, đây là việc làm tuy nhỏ, nhưng phù hợp với phong tục của đại đa số nhân dân và rất đáng hoan nghênh, bởi lễ Thanh Minh có ý nghĩa hay, đó là ngày người ta đi viếng người đã khuất. Vào ngày này trên khu vực Đồng Mồ ở xung quanh núi Ngự Bình, phía tây Kinh Thành Huế trở nên rất nhộn nhịp, những gia đình bình dân thường mang hương nhang, giấy tiền vàng bạc, hoa quả, bánh trái… cùng nhau đi tảo mộ tổ tiên, tưởng nhớ đến người đã khuất.
Tục tảo mộ của người Việt
Đối với người dân Việt, Tết Thanh Minh là dịp để con cháu hướng về tổ tiên, cội nguồn. Dù ai đi đâu, ở đâu đến ngày 3/3 âm lịch hằng năm cũng cố gắng về với gia đình để tảo mộ, sum họp bên mâm cơm gia đình. Những ngôi mộ được người nhà dọn dẹp sạch sẽ, vun đắp thêm đất mới, đó là những tâm đức của người đang sống đối với người đã khuất.
Công việc chính của tảo mộ là sửa sang các ngôi mộ của tổ tiên cho sạch sẽ. Nhân ngày Thanh Minh, người ta mang theo xẻng, cuốc để đắp lại nấm mồ cho đầy đặn, rẫy hết cỏ dại và những cây hoang mọc trùm lên mộ cũng như tránh không để cho các loài động vật hoang dã như rắn, chuột đào hang, làm tổ mà theo suy nghĩ của họ là có thể phạm tới linh hồn người đã khuất. Sau đó, người tảo mộ thắp vài nén hương, đốt vàng mã hoặc đặt thêm bó hoa cho linh hồn người đã khuất.
Đối với người dân Việt, Tiết Thanh minh là dịp để con cháu hướng về tổ tiên, cội nguồn.. Ảnh: Hoa viên Vĩnh Hằng
Trong ngày Thanh Minh, khu nghĩa trang, nghĩa địa trở nên đông đúc và nhộn nhịp. Các cụ già thì lo khấn vái tổ tiên nơi phần mộ. Trẻ em cũng được theo cha mẹ hay ông bà đi tảo mộ, trước là để biết dần những ngôi mộ của gia tiên, sau là để tập cho chúng sự kính trọng tổ tiên qua tục viếng mộ. Những người quanh năm đi làm ăn xa cũng thường trở về vào dịp này (có thể sớm hơn một, hai ngày vì nhiều lý do khác nhau) để tảo mộ gia tiên và sum họp với gia đình.
Người Việt lấy ngày Tết Thanh Minh là dịp để tu sửa phần mộ của tổ tiên, dòng họ mình để phần mộ được sạch sẽ. Khi đi tảo mộ, mọi người thường mang theo cuốc, xẻng để đắp lại những chỗ mồ bị nứt, bị hở, rẫy những cây cỏ dại và những cây hoang mọc xung quanh, trùm lên mộ và cũng để tránh cho các loài rắn, chuột đào hang, làm tổ. Sau khi hoàn thành tảo mộ, họ thường thắp những nén hương và trồng/cắm trên mộ một vài cây hoa nhỏ cho các linh hồn đã khuất.
Tết Thanh Minh nhắc chúng ta nhớ về quê hương, nguồn cội. Phảng phất trong bóng dáng mỗi con người là dấu ấn quê hương không dễ phai mờ theo năm tháng. Quê hương, nguồn cội chính là tài sản tinh thần vô giá đối với mỗi cá nhân chúng ta. Nếu không có điều kiện trở về quê hương trong dịp Thanh minh này, xin hãy hướng về nơi thiêng liêng ấy, bởi quê hương đi theo chúng ta suốt cuộc đời, in đậm dấu ấn trong từng nhân cách.
(Nguôn: Tổng hợp từ Internet)